Tiêu đề: Cái Bang Đệ nhất thiên hạ Mon Sep 19, 2011 8:48 am
Cái Bang, theo truyện võ hiệp thì nó là một hội tập hợp những người không thích làm việc, chỉ thích xin thức ăn thừa của người ta. Truyện Kim Dung mô tả Cái Bang là một hội rất lớn của những người ăn mày yêu nước và chuyên làm việc nghĩa.
Từ này cũng được dùng một cách tài tử để chỉ những người ăn mày. Lịch sử
Trong tiểu thuyết của Kim Dung, Cái Bang là bang đứng đầu (đệ nhất bang), xưng hùng cùng với Thiếu Lâm (đệ nhất phái) và Minh Giáo (đệ nhất giáo-chỉ xuất hiện trong Ỷ Thiên Đồ Long ký). Nhiều nhân vật anh hùng trong truyện Kim Dung từng ở trong bang này như Hồng Thất Công, Kiều Phong, Hoàng Dung (vị bang chủ nữ đầu tiên, về sau có Sử Hồng Thạch)...
Lịch sử Cái Bang có thể nói là từ rất lâu đời, danh xưng "Thiên Hạ Đệ Nhất Bang" không phải tự nhiên mà có. Nhờ tinh thần quật cường và nhân số đông đảo, phái này luôn chiếm một vị trí đáng kể trong võ lâm Trung Nguyên. Danh tiếng trên Giang hồ của Cái Bang lừng lẫy hàng trăm năm, nhân tài Ngọa hổ tàng long, thời nào cũng có.
Trong bốn bể Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn xin, nơi đó có Cái Bang. Những đệ tử trong bang thương yêu giúp đỡ nhau, chia sẻ mọi thứ, tạo nên một khối thống nhất luôn theo phò Chính nghĩa. Cái Bang tuyệt học chính là "Giáng Long thập bát chưởng" và "Đả cẩu bổng pháp".
Fire_Wolf:(Trong Cửu Long Tranh bá) Đời 2011. Lmao
Hàng long thập bát chưởng (Mười tám thế chưởng pháp hàng phục được rồng) là tên một loại tuyệt kỷ võ thuật xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nguyên có tên là Giáng long thập bát chưởng (降龍十八掌) và sau đã được thay đổi. Được mô tả trong loạt truyện kiếm hiệp gồm Thiên Long bát bộ và Xạ điêu tam bộ khúc (Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký), Hàng long thập bát chưởng là 1 trong 2 tuyệt kỷ của Cái Bang bên cạnh "Đả cẩu bổng pháp".
Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, còn Hàng long thập bát chưởng thì chỉ có những đệ tử cái bang từ hàng 9 túi trở lên mới được truyền dạy và mỗi người chỉ được dạy một vài chiêu chứ không được học hết cả pho chưởng pháp, ngoại trừ các đồ đệ truyền nhân của bang chủ.
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Hàng long thập bát chưởng đã vang danh thiên hạ từ lâu, song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ, và đến đời Quách Tĩnh (đồ đệ của Hồng Thất Công) thì được biết đến rộng rãi nhất.
Theo truyện Thiên long bát bộ, một nhân vật nữa làm cho Hàng long thập bát chưởng đi vào huyền thoại là Tiêu Phong, một nhân tài kiệt xuất của Cái Bang. Với tấm lòng hào hiệp, chính nghĩa, không chịu khuất phục cường địch, Tiêu Phong cùng với Hàng long thập bát chưởng là nỗi khiếp sợ của tà môn ngoại đạo. Trong bản chỉnh sửa mới nhất của Thiên Long Bát Bộ, thì Hàng long thập bát chưởng mới đầu có 28 chiêu là Hàng Long nhị thập bát chưởng. Về sau Tiêu Phong và Hư Trúc nhận thấy vẫn còn thiếu uy lực, lại có nhiều chiêu lập lại nên đã bổ sung, sửa chữa, rút gọn lại, tạo thành Hàng long thập bát chưởng, đồng thời khiến uy lực của bộ chưởng pháp tăng thêm. Cũng trong bản sửa đổi này thì Tiêu Phong còn ép Hư Trúc phải học Hàng long thập bát chưởng và Đả Cẩu Bổng với mục đích sau này khi Cái Bang tìm được bang chủ mới thì Hư Trúc sẽ truyền lại võ công cho người đó.
Theo Kim Dung, bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tùy theo người sử dụng. Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Gia Luật Tề cũng biết tất cả các chiêu nhưng không thể phát huy uy lực được như Quách Tĩnh và Hồng Thất Công. Về sau Hàng Long thập bát chưởng chỉ còn truyền lại được 12 chiêu như bang chủ Sử Hoả Long (Ỷ Thiên Đồ Long Ký) luyện nhưng không ai có được thành tựu cao, vật đổi sao dời, Hàng long thập bát chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang.
Hàng long thập bát chưởng
Chiêu thức của bộ chưởng pháp này bao gồm:
Phi long tại thiên 飛 龍在天 hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
Kiến long tại điền 見龍在田 lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
Hồng Tiệm vu lực 鴻漸於陸 lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
Tiềm long vật dụng 潛龍勿用 lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
Kháng long hữu hối 亢龍有悔 lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "Cản rồng ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận.
Lợi thiệp đại xuyên 利 涉大川 có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
Đột như kỳ lai 突如其來 lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
Chấn kinh bách lý 震驚百里 lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
Hoặc dược ư uyên 或躍於淵 hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
Song Long Xuất Thủy 雙龍取水 Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
Long chiến vu dã 龍戰於野 lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
Lữ sương băng chí 履霜冰絰 Sơn vũ dục lai, lữ sương băng chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
Đê dương xúc phiên 羝羊觸藩
Thần long bãi vĩ 神龍擺尾 Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ"
Đả cầu bổng pháp là một trong những tuyệt chiêu trấn phái của Cái Bang (dùng côn). Song hành cùng đó là "Hàng long thập bát chưởng". Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, là một loại Côn pháp chí cao. Từ lâu côn pháp này đã nổi danh nhưng song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ. Và đến đời Hoàng Dung - con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư thì được biết đến rộng rãi. Bộ chưởng pháp này dùng nhu thắng cương bao đời, nên Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà nổi danh giang hồ những cao thủ về bộ Côn pháp này có thể kể đến như: Hồng Thất Công, Hoàng Dung, Tống Nguyên Ân (trưởng lão đời thứ 12 của Cái Bang)...
Đả Cẩu Bổng Pháp có tổng cộng 36 chiêu, mỗi chiêu có nhiều thức biến hóa khác nhau tạo thành vô số chiêu thức tinh diệu. Đả Cẩu Bổng Pháp được thi triển theo đường lối "Tứ lạng bạt thiên cân" (Bốn lạng bạt ngàn cân), võ công được áp dụng theo 8 chữ khẩu quyết: buộc, đập, trói, đâm, khều, dẫn, khoá, xoay.
Nhà văn Kim Dung có nêu một số chiêu thức của Đả Cẩu Bổng Pháp:
Ngao Khẩu Đoạt Trượng (Cướp gậy từ tay địch nhân)
Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá)
Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập)
Bổng Đả Ác Cẩu (chữ Đập)
Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm)
Lục Phản Cẩu Điện ( chữ Đâm )
Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá )
Thiên Hạ Vô Cẩu (chữ Xoay)
Đả Ác Cẩu
Kháng Côn Hữu Hối
Thiện Cẩu Đả Ác
Tiềm Cẩu Tại Côn
Kinh Nhận Bích Lũy
Phấn Lực Đẩu Cẩu
Cẩu Phá Giáp
Trói Cẩu Tại thiên
Sát Cẩu Tại Côn
Đả Cẩu Côn Trận
Khều Háng Cẩu
Xoay Cẩu Tam Thập Lục
Bổng Pháp Vô Đối
Ngọc Cẩu Bổng Trận
Hàng Cẩu
Ảm Hồn Cẩu
Càn Khôn đại Cẩu
Cửu Cẩu Đại Côn
Kháng Cẩu Hữu Hối
Đại Côn Thần Câeu
Đại Kinh Cẩu
Niêm Hoa Thần Cẩu
Thái Cực Cẩu
Cẩu Mô Công
Nhát Dương Cẩu
Lục Mạch Thần Cẩu
Lăng Ba Vi Cẩu
Độc Cô Cầm Bổng
Được sửa bởi Chíc Đại Hiệp ngày Wed Oct 26, 2011 12:42 pm; sửa lần 1.